Một số kết quả nghiên cứu về ứng dụng mô hình kinh tế chia sẻ vào hoạt động của HTX trong sản xuất nông nghiệp
Với xu thế bùng nổ của mô hình kinh tế chia sẻ, một lực lượng mạnh mẽ thúc đẩy sự kết nối và hợp tác giữa các thành viên trong cộng đồng kinh tế. Trong bối cảnh này, ứng dụng mô hình kinh tế chia sẻ vào hoạt động của hợp tác xã trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp đang trở thành một xu hướng quan trọng, mang lại nhiều cơ hội và thách thức. Sau đây là một số kết quả nghiên cứu về ứng dụng mô hình kinh tế chia sẻ vào hoạt động của HTX trong sản xuất nông nghiệp:
1. Đề tài “Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp ứng dụng mô hình kinh tế chia sẻ vào hoạt động của HTX trong sản xuất nông nghiệp” do PGS. TS. Đỗ Minh Cương, Viện Phát triển kinh tế hợp tác, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam thực hiện năm 2021. Thông qua đề tài, luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn về ứng dụng mô hình kinh tế chia sẻ vào hoạt động của hợp tác xã (HTX) trong sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam; Đánh giá thực trạng về ứng dụng kinh tế chia sẻ vào hoạt động của các HTX trong sản xuất nông nghiệp giai đoạn 2011- 2020; Thử nghiệm ứng dụng mô hình kinh tế chia sẻ vào hoạt động của các HTX trong sản xuất nông nghiệp để tuyên truyền, phổ biến nhân rộng; Đề xuất các giải pháp ứng dụng mô hình kinh tế chia sẻ (KTCS) vào hoạt động của HTX trong sản xuất nông nghiệp đến năm 2025.
2. Đề tài “Ứng dụng kinh tế chia sẻ trong phát triển kết nối chuỗi cung ứng xuất khẩu rau quả Việt Nam dưới tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ 4” do TS. Nguyễn Bích Thuỷ, Trường Đại học Thương Mại, Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện năm 2023. Kết quả đề tài tổng quan về chuỗi cung ứng xuất khẩu rau quả và tính liên kết giữa các chủ thể trong chuỗi bao gồm: doanh nghiệp cung cấp cây giống, nông dân, nhà sản xuất chế biến, doanh nghiệp vận chuyển, bảo quản, doanh nghiệp xuất khẩu, các nhà cung cấp dịch vụ kết nối chuỗi cung ứng. Ứng dụng kinh tế chia sẻ trong phát triển kết nối các chủ thể và trung gian của chuỗi cung ứng xuất khẩu rau quả Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Nghiên cứu điển hình đối với quả thanh long là mặt hàng được nước nhập khẩu ưa chuộng nhất, xuất khẩu chiếm 50% tổng kim ngạch xuất khẩu trái cây) và rau hiện nay.
3. Nghiên cứu ứng dụng kinh tế chia sẻ trong kết nối chuỗi cung ứng rau quả Việt Nam
Theo VNU Journal of Economics and Business, quyển 1, số 3/2021, tác giả Nguyễn Nguyệt Nga đã nghiên cứu ứng dụng kinh tế chia sẻ trong kết nối chuỗi cung ứng rau quả Việt Nam. Kinh tế chia sẻ (KTCS) là mô hình thị trường dựa trên chia sẻ quyền truy cập vào hàng hóa và dịch vụ, phối hợp thông qua các dịch vụ trực tuyến dựa vào cộng đồng. Quan điểm của Watkins cho thấy bản chất của KTCS là chuyển từ việc sở hữu sang tiếp cận hàng hóa dịch vụ. Lợi ích đạt được của nền KTCS là tiết kiệm chi phí, giúp bảo vệ môi trường, tăng tính hiệu quả của nền kinh tế, giảm bớt sự lãng phí tài nguyên xã hội và sự dư thừa nguồn lực của các tổ chức trong xã hội. Tháng 8/2019, Đề án thúc đẩy mô hình KTCS của Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam cũng nhấn mạnh tầm quan trọng trong việc ứng dụng KTCS trong nhiều lĩnh vực, trong đó có sản xuất và cung ứng nông sản.
Tác giả đã tập trung làm rõ các lợi ích khi ứng dụng kinh tế chia sẻ trong kết nối chuỗi cung ứng rau quả Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu là ngành hàng rau quả, cụ thể là sản phẩm thanh long và rau của các tỉnh Bình Thuận, Vĩnh Phúc, Lâm Đồng, Hà Nam trong năm 2018- 2019. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng là cách tiếp cận kết hợp định tính và định lượng nhằm khám phá sâu vấn đề còn rất mới tại Việt Nam là ứng dụng kinh tế chia sẻtrong chuỗi cung ứng rau quả. Kết quả cho thấy việc ứng dụng kinh tế chia sẻ nhằm phát triển kết nối chuỗi cung ứng rau quả Việt Nam mang lại lợi ích cho các chủ thể trong chuỗi. Đồng thời, nghiên cứu là cần thiết trong bối cảnh Đề án thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã được Chính phủ Việt Nam phê duyệt tháng 8/2019.
4. Ứng dụng kinh tế chia sẻ trong phát triển chuỗi cung ứng rau quả của Việt Nam
Theo tạp chí Kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương tháng 11/2019, tác giả Nguyễn Bích Thủy đã nghiên cứu ứng dụng kinh tế chia sẻ trong phát triển chuỗi cung ứng rau quả của Việt Nam. Kinh tế chia sẻ là một hệ sinh thái kinh tế- xã hội nhằm chia sẻ các nguồn lực vật chất và con người trong sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ giữa các cá nhân, tổ chức khác nhau, với tính chất điển hình là thông qua nền tảng công nghệ kĩ thuật số với nền tảng dữ liệu lớn (Big data). Thông qua nền tảng kết nối (platform), các chủ thể tham gia có thể chia sẻ quyền sử dụng dịch vụ, hàng hóa, thông tin nhằm tiết kiệm nguồn lực và tối ưu hóa việc sử dụng nguồn lực của mình. Như vậy kinh tế chia sẻ không chỉ giúp các chủ thể chuỗi cung ứng rau quả trong việc tiếp cận tốt hơn đến các đối tác cung cấp đầu vào và đầu ra của đơn vị, mà còn gia tăng hiệu quả sử dụng các tài sản của đơn vị, tiếp cận được nguồn thông tin đa dạng, phong phú từ các chủ thể của chuỗi.
Kinh tế chia sẻ - mô hình kinh tế mới tận dụng các thành tựu công nghệ của cách mạng công nghiệp 4.0 - đang mang lại những cơ hội chưa từng có cho việc phát triển chuỗi cung ứng rau quả của Việt Nam, vốn đang là vấn đề nóng mà các cơ quan chính phủ Việt Nam quan tâm. Tuy nhiên, việc ứng dụng kinh tế chia sẻ trong phát triển chuỗi cung ứng rau quả Việt Nam còn nhiều thách thức, nhất là khi Việt Nam đang có trình độ phát triển thấp và nhận thức của đại đa số người dân còn chưa cao trước cơ hội này.
5. Green Path: Phát triển nông nghiệp dựa trên mô hình kinh tế chia sẻ
Theo tạp chí Thông tin Khoa học và Công nghệ Quảng Bình số 05/2019, chị Phùng Thị Thu Hương cùng các cộng sự đã xây dựng một startup có tên Green Path. Như chúng ta đã biết nền nông nghiệp Việt Nam có điều kiện khí hậu ưu đãi, nhiều sản phẩm đa dạng, phong phú, “mùa nào thức ấy” và hiện đang có ưu thế lớn để cạnh tranh với các sản phẩm của nước khác. Sau hơn 30 năm đổi mới, nông nghiệp Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc, những loại nông sản của Việt Nam như cà phê, trái cây, cao su, hồ tiêu, cá tra... đã được xuất khẩu đi khắp thế giới. Tuy nhiên, ngành nông nghiệp vẫn đứng trước những thách thức lớn để có thể tăng trưởng và phát triển bền vững. Mặc dù có tiềm năng nhưng về tài nguyên phát triển nông nghiệp lại chưa phát huy hết khả năng và tiềm lực, đặc biệt trong chế biến nông sản, chủ yếu vẫn là sản xuất thô, không qua chế biến, không có thương hiệu, không có nhiều đơn hàng, hợp đồng lớn. Nhiều chuyên gia cho rằng, lý do chính là nông sản của Việt Nam vẫn nằm trong hệ thống sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, tùy tiện, không theo một tiêu chuẩn rõ ràng. Người nông dân sản xuất theo cảm tính, nhiều khi sản xuất ra không biết bán cho ai khiến cho sản phẩm bị dư thừa. Đã có nhiều cuộc “giải cứu” cho các nông sản Việt nhằm khắc phục một phần khó khăn cho người dân. Đó là lý do chính mà người dân chưa thê làm giàu trên chính mảnh đất của mình. Bên cạnh đó, quá trình sản xuất nông nghiệp đang khai thác còn chưa bền vững. Người dân lạm dụng quá nhiều thuốc bảo vệ thực vật, phân bón vô cơ khiến cho môi trường bị hủy hoại.
Trước những thực tế nêu trên, cùng với hy vọng có thể góp một phần công sức của mình cho sự phát triển bền vững của nền nông nghiệp nước nhà, đã nhen nhóm ý tưởng khởi nghiệp với Green Path.
6. Phân tích lợi ích - chi phí khi áp dụng kinh tế chia sẻ cho các trang trại thanh long ruột trắng ở Việt Nam
Theo tờ Corporate Finace số 01.(20)-2023, tác giả Nguyễn Nguyệt Nga và Vũ Thị Thùy Linh đã tập trung làm rõ các chi phí và lợi ích của việc đưa nền tảng chia sẻ để ứng dụng trong chuỗi thanh long ruột trắng ở Việt Nam. Nghiên cứu tập trung vào phạm vi nghiên cứu tại tỉnh Bình Thuận trong giai đoạn 2018 - 2019 và sử dụng phương pháp Phân tích chi phí - lợi ích để phân tích dữ liệu. Tác giả xây dựng hai kịch bản nhằm chỉ ra sự thay đổi về chi phí và lợi ích của các trang trại trồng thanh long ruột trắng. Kết quả cho thấy việc ứng dụng kinh tế chia sẻ giữa các trang trại trồng thanh long ruột trắng mang lại nhiều lợi ích cho nông dân. Nghiên cứu đóng vai trò quan trong bối cảnh Bộ Kế hoạch và đầu tư thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ được hỗ trợ bởi Chính phủ Việt Nam từ tháng 8 năm 2019.
7. Quản lý nhà nước trong nền kinh tế chia sẻ: Kinh nghiệm quốc tế và gợi ý cho Việt Nam
Theo Trung tâm Thông tin- Tư liệu, chuyên đề số 14/2018 đã nghiên cứu tổng hợp về nội dung quản lý nhà nước trong nền kinh tế chia sẻ. Trên thế giới, các hoạt động hay mô hình chia sẻ đã có từ rất lâu như thư viện, thuê xe, CLB, phòng luyện tập, xe ôm, chia sẻ trong làng xã, thị trấn,… Tuy nhiên từ giữa thế kỷ XX, cùng với sự phát triển của Internet, với sự hỗ trợ, kết nối nhờ tận áp dụng công nghệ, người tiêu dùng đã tận dụng hiệu quả hơn đối với tài sản cá nhân mình có. Việc này giúp những thứ được lãng phí do không dùng đến được tận dụng thông qua nền tảng công nghệ. Thông qua nền tảng này con người bắt đầu thay đổi quan hệ với những thứ mình tư hữu, họ nhận ra những thứ có thể được truy cập mà không cần sở hữu, thứ đắt đỏ trong việc duy trì, thứ không thực sự cần thiết, thứ không được dùng thường xuyên… đều nên thuê chứ không nên mua. Định nghĩa nền kinh tế chia sẻ (các tên gọi khác là sharing economy, collaborative economy, the mesh…) là hệ thống kinh tế đề cao chia sẻ và hợp tác hơn tư hữu dựa trên nền tảng công nghệ. Con người thay vì sở hữu để thỏa mãn nhu cầu của mình thì sẽ tìm những nguồn lực trong cộng đồng. Nền kinh tế chia sẻ đang phát triển vì nó tái phân phối tài nguyên đang không được sử dụng hiệu quả (sản phẩm mua rồi nhưng không dùng, máy móc không được khai thác tối đa thời gian sử dụng) sang chỗ mà nó được dùng hiệu quả hơn.
Đề tài đã chỉ ra cơ hội và lợi ích lớn nhất của kinh tế chia sẻ là việc tiết kiệm tài nguyên thông qua việc sử dụng tiết kiệm tài sản trong toàn bộ vòng đời của nó. Các xe cá nhân được dùng cho việc cung cấp dịch vụ cho Uber, Grab, Lyft v.v… giúp tiết kiệm tài nguyên của tài sản. Một ví dụ khác như dịch vụ cho thuê thiết bị nông nghiệp của nền tảng Trringo do công ty ô tô Mahindra & Mahindra ở Ấn Độ đã cho phép nông dân thuê được thiết bị, máy móc nông nghiệp bằng cách gọi điện, góp phần thúc đẩy sự thịnh vượng của vùng nông thôn. Chỉ khoảng 15% trong số 120 triệu nông dân Ấn Độ có khả năng chi trả để sở hữu thiết bị cơ khí nông nghiệp. Vì vậy, nền tảng này đã cho phép những nông dân khác cũng có thể sử dụng được máy móc nông nghiệp với chi phí thấp hơn nhiều. Đồng thời, với việc tiết kiệm trong sử dụng tài sản, máy móc, thiết bị, tiết kiệm tài nguyên v.v.., các hoạt động kinh tế chia sẻ cũng có tác động tích cực tới môi trường thông qua giảm phát thải khí nhà kính, giảm khối lượng các chất thải ra môi trường.
Gia Phú